42. Trong trường hợp có tranh chấp, toà án nào sẽ xét xử một hợp đồng xuyên quốc gia được thoả thuận bằng hệ thống điện tử?
Một vấn đề được đặt ra khi có tranh chấp là toà án quốc gia hay tổ chức trọng tài sẽ thụ lý vụ việc đó.
Khi trong hợp đồng không có điều khoản về việc một toà án hoặc tổ chức trọng tài cụ thể nào sẽ thụ lý tranh chấp thì toà án quốc gia sẽ quyết định liệu họ có quyền xét xử vụ việc theo luật quốc gia của họ không. Do đó, cần nhấn mạnh rằng, để bảo đảm an toàn và khả năng xử lý những tình huống có thể xảy ra, bạn và đối tác của bạn cần ghi rõ trong hợp đồng là toà án nào hoặc tổ chức trọng tài nào sẽ giải quyết vụ việc khi tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, cần nói rằng hiệu lực của một điều khoản như vậy còn phụ thuộc vào luật quốc gia. Thí dụ ở Pháp, một điều khoản như vậy sẽ không có hiệu lực giữa các bên không phải là doanh nghiệp, trừ trường hợp hợp đồng đó mang tính quốc tế.
Một điều khác cần nhắc nhở trong vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng và các bên kinh doanh cần qui định rõ trong hợp đồng rằng luật nào sẽ được áp dụng khi tranh chấp xảy ra.
Trong kinh doanh quốc tế, việc áp dụng điều khoản trọng tài là một nhu cầu thực tế thường xảy ra vì nó tránh được việc khởi kiện bên toà án quốc gia và việc thực thi những qui định quốc gia về thủ tục xét xử, điều mà ít nhất là một trong hai bên không thành thạo. Hơn nữa, phương thức trọng tài và phương thức đã được quốc tế thừa nhận. Thí dụ công ước New York năm 1958 về việc thừa nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, đã được 120 nước phê chuẩn đã thừa nhận phán quyết trọng tài cũng có hiệu lực như phán quyết của toà án quốc gia.
Phương thức trọng tài có thể không phải là luôn luôn cần thiết ở những nước đã ký kết hiệp ước qui định toà án nào sẽ thụ lý vụ việc và thừa nhận phán quyết của toà án quốc gia. Thí dụ ở Châu Âu, công ước Bơrutxen ngày 27 tháng 9 năm 1968 và công ước Lugano ngày 16 tháng 9 năm 1988 qui định toà án có quyền thụ lý vụ việc là toà án ở nơi cư trú của bên bị kiện, hoặc toà án của nước mà hợp đồng thực hiện ở đó, hoặc toà án của nước bị thiệt hại, chủ đề của sự tranh chấp. Tuy nhiên, ở nhiều nước còn đồng ý với công dân của họ về quyền đưa tranh chấp ra toà án quốc gia của họ (trong trường hợp hợp đồng không qui định toà án hoặc tổ chức trọng tài nào sẽ xử lý vụ việc).
Cũng cần phải nói rằng, một dự thảo công ước về quyền phản xét và xét xử đối ngoại đối với các vụ việc dân sự và thương mại đã được hội nghị Hague về tư pháp quốc tế (Tháng 10/1999) nghiên cứu và một dự thảo qui chế Châu Âu ngày 14/7/1999 về quyền xét xử tranh chấp cũng đã được đệ trình bên Hội đồng Châu Âu.
( Nguồn: Sưu tầm trên internet //intracen.org )
Khi trong hợp đồng không có điều khoản về việc một toà án hoặc tổ chức trọng tài cụ thể nào sẽ thụ lý tranh chấp thì toà án quốc gia sẽ quyết định liệu họ có quyền xét xử vụ việc theo luật quốc gia của họ không. Do đó, cần nhấn mạnh rằng, để bảo đảm an toàn và khả năng xử lý những tình huống có thể xảy ra, bạn và đối tác của bạn cần ghi rõ trong hợp đồng là toà án nào hoặc tổ chức trọng tài nào sẽ giải quyết vụ việc khi tranh chấp xảy ra.
Khi các bên thảo luận một hợp đồng thương mại qua hệ thống điện tử; hợp đồng đó sẽ được thiết lập bằng cách một bên đưa ra lời chào hàng và bên kia chấp nhận lời chào hàng. Việc trao đổi sự thỏa thuận đó sẽ tạo ra hiệu lực pháp lý của hợp đồng mà không cần hai bên thực hiện một hình thức nào khác, trừ trường hợp pháp luật đòi hỏi hợp đồng phải được viết theo một khuôn mẫu cụ thể (thí dụ trường hợp mua bán tài sản, nhà) hoặc trường hợp luật pháp quốc gia đòi hỏi hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản (thí dụ trường hợp mua bán doanh nghiệp, vận đơn đường biển).
Ở những nước theo hệ thống luật công như Ấn Độ (Niu Di lân, Negeria, Anh), khi người bán đưa ra một lời chào hàng, thì theo luật, họ không được huỷ bỏ lời chào hàng đó vào bất cứ lúc nào trước khi lời chào hàng đó được người mua chấp nhận.
Đa số các nước thừa nhận rằng việc ký kết một hợp đồng trên hệ thống điện tử rất có giá trị, đặc biệt là khi việc đó xảy ra trong hệ thống điện tử khép kín, như hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử.
Xét về mặt kỹ thuật, người ta không có khả năng bảo đảm rằng thông tin điện tử được thể hiện trên màn hình của một máy tính là phù hợp với thông tin được phát ra. Sự bảo đảm đó chỉ có thể đạt được ở mức độ nhất định bằng cách có được tài liệu hoặc bản gốc được một người thứ ba độc lập chứng nhận (thí dụ một công ty kiểm toán và phòng thương mại).